|
ƠN GỌI GIA ĐÌNH VÀ MẦU NHIỆM GIÁNG SINH
Mầu nhiệm Giáng Sinh vọng lại cho chúng ta những suy tư về ý định của Thiên Chúa nơi con người, về hạnh phúc, về tình yêu trong đời sống hôn nhân gia đình hôm nay. Nhìn vào hang đá, chúng ta cũng sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng ngay sự kỳ diệu ẩn sau những nhân vật trong gia đình thánh ấy: Đức Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse. Đây là hiện thân của mỗi gia đình Công Giáo và là một chỉ dẫn rất sống động về chương trình – kế hoạch của Thiên Chúa đối với tình yêu hôn nhân và hạnh phúc gia đình. Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhận lấy thân phận con người và nên giống người ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã khởi đầu tất cả trong bình thường: được sinh ra và lớn lên bình thường như bao trẻ Do Thái khác. Mẹ Ngài là Maria, một thiếu nữ Do Thái khiêm tốn, đơn sơ. Bà đã đính hôn với Giuse, bác thợ mộc bình dị, cần cù lao động. Hai ông bà sinh sống tại thành Nadarét thuộc miền Galilê, trong lặng lẽ, âm thầm và ẩn dật. Sau này, trong hành trình rao giảng, Đức Giêsu cũng bị chính dân làng của Ngài coi rẻ rúng và không nhận biết Ngài vì sự bình thường của một con người thuộc một gia đình lao động nghèo bình thường. Maria được ơn gọi làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Bà đã trở nên cao cả và là một người nữ diễm phúc. Bà đã đính hôn với Giuse nhưng lại vâng phục Thiên Chúa để thụ thai mà không biết đến người nam, rồi sinh con và đặt tên con là Giêsu. Maria không thể hiểu được những gì xẩy đến cho mình nhưng Mẹ đã vâng phục và sẵn lòng dấn thân cộng tác trong việc phục vụ kế hoạch của Thiên Chúa: “Này tôi là tôi tá Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo lời Ngài !” (Lc 1,38). Giuse, bạn đời của Maria, cũng trải nghiệm những điều tương tự. Ông im lặng trong sâu thẳm của lòng mình để chiêm niệm thánh ý Thiên Chúa: chấp nhận Maria mang thai do quyền năng Thiên Chúa và hạ sinh Đấng Cứu Thế cho nhân loại. Chấp nhận chăm sóc dưỡng dục trẻ Giêsu và lo toan việc cai quản gia đình Nadarét trong vâng phục và với tinh thần trách nhiệm cao nhất. Tình nghĩa chung thủy vợ-chồng, tình cảm thiết thân cha-con, tấm lòng trung thành với bổn phận một người công chính đã gắn chặt Giuse vào chương trình hành động bí mật của Thiên Chúa hơn là vào những dự tính riêng tư của ông. Như vậy, đằng sau tất cả những điều bình thường ấy, Thiên Chúa đã thực hiện nơi những con người mà Thiên Chúa tuyển chọn, một chương trình – kế hoạch lạ lùng, kỳ diệu. Thiên Chúa luôn ưa thích sự “bình thường” để làm nên những điều “vượt trên bình thường”. Mỗi cuộc hôn nhân Công Giáo, bề ngoài là bình thường như bao cuộc hôn nhân khác trong nhân loại, nhưng bên trong, đó là một mầu nhiệm, một bí tích và một ơn gọi. Tình yêu lứa đôi, sự phối hợp nam nữ, nhu cầu kết duyên trai gái và xây dựng tổ ấm gia đình…đều mang ý nghĩa nhân bản cao quý. Từ cổ chí kim, từ đông sang tây, đó là chuyện bình thường như một quy luật của cuộc đời. Nhưng với tín hữu Công giáo thì vấn đề khác hẳn. Không ai trong chúng ta đã dám nghĩ hôn nhân Kitô giáo là một mầu nhiệm, một bí tích nếu Lời Chúa, Kinh Thánh và giáo huấn của Hội thánh không mạc khải và nói ra! Kinh thánh đã khẳng định quy luật muôn đời ấy của con người và đã vén mở về kế hoạch riêng của Thiên Chúa: “Yavê Thiên Chúa đã phán: ‘Không tốt, nếu người chỉ có một mình. Ta sẽ làm cho nó cái gì trợ giúp đương đối với nó’ (St 2,18) “Và Yavê Thiên Chúa đã giáng xuống trên người một giấc tê mê, và nó đã ngủ thiếp đi. Và Người đã rút lấy một xương sườn của nó, đoạn lắp thịt vào. Và trên sườn đã rút ra tự người, Yavê Thiên Chúa đã xây thành người đàn bà. Đoạn Người dẫn đến với người. Và nó đã nói: ‘Phen này, nàng là xương tự xương tôi, thịt tự thịt tôi. Nàng sẽ đội danh là “đàn bà” vì đã được rút tự đàn ông’” (St 2,21-23) “Bởi thế mà đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ mình và chúng sẽ nên một thân xác…” (St 2,24) Lời lẽ mộc mạc và ý nghĩa đơn sơ của câu truyện về Sáng Thế trên trong Kinh Thánh đã mở ra một hình ảnh rõ nét của mầu nhiệm hôn nhân Kitô giáo, đó là: * Thiên Chúa yêu con người. Người biết những nhu cầu thầm kín sâu xa của họ và sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu ấy. Thiên Chúa đã tạo dựng cho Adam một người nữ tên Eva, người đàn ông không thể sống một mình mà cần có một ‘đối tác xứng đôi vừa lứa’ để trợ giúp. * Tình yêu hôn nhân đã làm nên một sự hiệp thông sâu xa và hoàn hảo nhất, vì người nữ xuất hiện từ một xương sườn của người nam và rồi trở lại kết hợp với người ấy để nên một thân xác. Thiên Chúa đã muốn họ trở thành của nhau, thuộc về nhau, kết hợp với nhau, sống khắn khít với nhau để cùng nhau xây dựng và phát triển. * Trong hôn nhân, hai người sống với nhau để đem lại hạnh phúc cho nhau và cũng là để tiếp nối công việc tạo thành của Thiên Chúa qua việc sinh sôi nẩy nở những con người mới sống động cho nhân loại nói chung và cho Dân được chọn nói riêng. Thiên Chúa cũng muốn con người, qua giao ước hôn nhân diễn tả một cách cụ thể Tình Yêu sâu thẳm và bao la của Người. Thiên Chúa đã cụ thể hóa tình thương của Người trên nhân loại và trên dân riêng của Người qua hàng loạt các hình thức giao ước: từ những câu chuyện mang dáng dấp kết ước suốt chiều dài của lịch sử cứu độ: tạo dựng Adam-Eva, ông Noê và nạn lụt hồng thủy, Abraham và ơn gọi khai mở dân riêng…, đến giao ước Sinai với Môsê, và cuối cùng là giao ước mới trên núi sọ. Tín hữu khi chấp nhận cuộc sống hôn nhân Công Giáo vừa sống mầu nhiệm tình yêu, vừa diễn tả mầu nhiệm tình yêu ấy. Thiên Chúa muốn cho con người xác tín rằng hôn nhân không còn là chuyện bình thường để người ta chấp nhận nó một cách tùy tiện và ngẫu hứng! Trái lại, hôn nhân trong ý định của Thiên Chúa, đã mô phỏng – và hơn thế nữa – đã hiện tại hóa kết ước giữa Thiên Chúa – con người, giữa Chúa Kitô và Hội thánh. Chính vì vậy, sợi giây liên kết giữa hai người nam – nữ thành hôn đã trở nên bền vững, linh thiêng và hiệu lực đến cùng… Trong thư gửi tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô đã so sánh và minh họa mầu nhiệm – Bí Tích Hôn Nhân Công Giáo một cách cụ thể, sống động và rõ ràng như sau: “Hãy tùng phục nhau trong sự kính sợ Đức Kitô: Vợ hãy phục tùng chồng, như thể với Chúa. Vì chồng là đầu của vợ, cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, và Ngài là Cứu Chúa của Thân mình. Dù sao, như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô, thì các ngừơi làm vợ cũng hãy tùng phục chồng họ như vậy trong mọi sự! Chồng hãy yêu mến vợ, cũng như Đức Kitô đã yêu mến Hội Thánh…” Đó là một mầu nhiệm lớn, tôi muốn ám chỉ về Đức Kitô và Hội Thánh. Dù sao, anh em mỗi người hãy yêu mến vợ mình như chính mình, còn vợ hãy kính sợ chồng!” (Ep 5, 21-33). Ơn gọi hôn nhân Công Giáo thật cao cả, nhưng cũng rất khó khăn nặng nề. Nếu mầu nhiệm Giáng Sinh đã vén mở những bí nhiệm của kế hoạch lạ lùng vĩ đại mà Thiên Chúa thực hiện nơi những con người bình thường thì mầu nhiệm ấy cũng soi sáng cho tín hữu nhận biết rằng, nhờ Bí Tích Hôn Nhân và qua Bí Tích Hôn Nhân, mỗi đôi vợ chồng, mỗi gia đình Kitô hữu cũng đang được tham dự vào chương trình – kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa. Công việc nào cũng có niềm vui, niềm an ủi lẫn mồ hôi và nước mắt. Bên cạnh niềm vui của cuộc sống hôn nhân gia đình, chúng ta có khá nhiều kinh nghiệm nếm trải những hy sinh vất vả, kể cả những đắng cay cơ cực… Đó là những thử thách không thể tránh được khi ta nỗ lực đi vào lộ trình thực hiện thánh ý Thiên Chúa. Sứ mệnh cao cả không che khuất thực tại khó khăn. Chúng ta vững tâm sống ơn gọi đã lãnh nhận vì tin rằng “Với những ai yêu mến Thiên Chúa, thì Người đồng công cộng tác biến mọi sự nên lành, tức là những ai đã được Người kêu gọi theo ý định của Người…” (Rm 8,28)
Tịnh Lam,sss |